- Xin vui lòng bấm nút đặt hàng
- Sản phẩm đặc sản chỉ bán online và giao hàng tậng nơi, không bán trực tiếp
Yên Bái là một tỉnh vùng núi tiếp giáp Tây Bắc và Đông Bắc nước ta. Nhắc tới Yên Bái người ta lại không khỏi xao xuyến khi nhớ về những thửa ruộng bậc thang đẹp như tranh; những biển mây trắng ôm xòa lòng người hay chỉ đơn giản là hương vị núi rừng mộc mạc.
1. Thịt Trâu Gác Bếp
Thịt trâu từ xưa vốn đã là một thứ thịt dồi dào dưỡng chất. Vậy nên ở đâu đó trên khắp đất nước bạn đều có thể thưởng thức được loại thịt trâu được chế biến thành bao món ăn hấp dẫn. Tuy nhiên, khi nói đến món “thịt trâu gác bếp” người ta đều muốn về Yên Bái ăn cho bằng được.
Để có được món này, đồng bào dân tộc Thái đã dày công chọn lựa từ bước đầu tiên lựa chon thịt trâu. Phải nhất định là trâu bản được chăn thả tự nhiên mới có được từng thớ thịt bắp lấy từ vai và lưng chắc rõi, ngọt bùi không lẫn vào đâu. Cùng với mắc khén, gừng, dổi, ớt… Kèm với công thức gia truyền, thịt trâu được treo nơi gác bếp những hàng tháng trời mới có được thành phẩm.
Món ăn được xem là hoàn tất khi một mặt ám khói đen, khô lại điểm xuyến thêm vài miếng tiêu, ớt… thật đẹp mắt. Muốn thưởng thức hết độ ngon của món này phải xé nhỏ từng miếng thì mới có thể cảm nhận được hết từng hương vị cũng như cái tâm tình của người đã làm ra chúng. Ngày nay, thịt trâu gác bếp được xem như một đặc sản gắn liền với Yên Bái. Món thịt trâu tưởng chừng chỉ nằm nơi xó bếp nay đã trở thành thứ quà núi rừng không thể bỏ lỡ cho những ai đã ghé thăm vùng đất này.
2. Muồm Muỗm Rang Mường Lò
Khi những hạt lúa ở Mường Lò bắt đầu nặng trĩu cành thoảng mùi hương lúa chín đó cũng là lúc báo hiệu cho người ta biết mùa muồm muỗm đã về. Thứ sinh vật được xem như thiên địch bảo vệ mùa màng này có hình dạng bên ngoài tựa như cào cào, châu chấu… nhưng trông thon gọn hơn.
Những con muồm muỗm được bắt từ bẫy đèn được sơ chế qua 4 bước “vặt cánh, bẻ chân, ngắt đầu, rút ruột” rồi chế biến thành nhiều món khác nhau. Tuy nhiên, muồm muỗm rang giòn vẫn được cho là quyến rũ vị giác người thưởng thức nhất.
Muồm muỗm được sơ chế rồi om với măng chua đến khi cạn nước. Rồi cả mớ đó được xào lửa to cùng dầu hoặc mỡ. Khi nghe nổ lách tách cũng là lúc đĩa muồm muỗm sẵn sàng cho bữa tiệc miền sơn cước. Món ăn càng hoàn hảo hơn khi được điểm tô cùng vài cọng lá chanh thái mỏng.
Hoặc không cầu kỳ người ta cứ làm hẵn một xiên muồm muỗm rồi nướng. Tiếng nước và mỡ từ muồm muỗm chảy xì xèo giữa hơi nóng của than hồng nhưng cũng chắc chẳng nóng bằng lòng người đang chờ đợi thưởng thức món ăn này.
Nhấm nháp một con muồm muỗm vàng ruộm khiến người ta lại nhớ quê cồn cào. Nhớ vị ngọt của hạt lúa vừa gặt, mùi hăng hăng của gốc rạ vừa ngả dở trên đồng. Hay đâu đó trong lòng chấp chới đôi cánh muồm muỗm như muốn đưa người ta trở về núi rừng Tây Bắc một lần nữa.
3. Lạp Xưởng
Lạp xưởng hay lạp sườn là cách thức bảo quản thịt độc đáo của người dân Yên Bái. Hầu như nhà nào ở vùng Tây Bắc này cũng trữ sẵn vài chiếc để ăn quanh năm.
Cách thức làm lạp xưởng đều giống nhau ở các bước cơ bản. Từ chọn lựa lòng non làm vỏ đến những phần thịt ngon nhất. Việc nêm nếm gia vị của từng vùng miền giúp những chiếc lạp xưởng từ đó mà có hương vị đặc trưng riêng.
Từ đôi bàn tay khéo léo người ta nhồi và dồn thịt căng tròn, bóng đẫy đà những đoạn lòng non. Sau ba ngày phơi nắng rồi đem hun khói nơi gác bếp. Quá trình này có thể gọi là tinh hoa của món ăn này. Phải chọn cho bàng được than hoa hoặc củi quế, xác mía, vỏ trấu cùng lá quế tươi mang đến mùi vị thơm ngon ho lạp xưởng. Người nấu phải chăm chút đứa con này thật khéo léo sao cho bếp luôn đỏ nhưng lửa than không được quá lớn. Chỉ hở tay một tí có thể làm hỏng cả bao nhiêu công cúc đã bỏ ra.
Lạp xưởng Yên Bái thường được hun kỹ nên có màu sẫm hơn và săn lại. Để thưởng thức thì phải luộc sơ qua nước rồi mới đem chiên hoặc nướng.
Một buổi tiêc đại ngàn sẽ mất ngon nếu thiếu sự xuất hiện của vài khoanh lạp xưởng Yên Bái. Ghé nhà một người dân Tây Bắc bạn đều có thể thưởng thức được món ăn này vào bất cư dịp nào. Thế nên nếu có cơ hội ghé thăm nơi đây đừng quên mang về chút gió vùng cao gói tròn trong vài chiếc lạp xưởng nhé.
4. Xôi nếp Tú Lệ
Truyền thuyết kể lại rằng từ thuở khai thiên lập đia, người Thái được các vị tiên ưu ái ban tặng những hạt giống tốt để trồng trọt. Cùng với lời dặn phải tìm nơi thổ nhưỡng thích hợp mà gieo trồng. Họ bỏ công tìm kiếm nhưng chẳng tìm được nơi nảy mầm cho những hạt giống này. Nhưng kỳ lạ thay khi đến vùng Tú Lệ dưới chân đèo Khau Phạ cùng làn nước mát lành dòng suối Mường Luống thì lại sinh sôi nảy mầm tươi tốt. Thứ hạt giống trời ban này từ đó được người Thái đặt cho cái tên mỹ miều nếp Tú Lệ.
Hằng năm vào tháng Mười có lễ cúng cơm mới như một lời tạ ơn các vị tiên đã ban tặng hạt giống này.
Những hạt nếp Tú Lệ chắc mẩy, căng bóng được đồ cùng dòng nước tinh khiết Khau Phạ đem đến món xôi ngon không nơi nào sánh bằng. Xôi Tú Lệ dẻo, hạt vừa đủ độ mềm không gây ngấy, cả vị bùi và vị ngọt cũng không lẫn vào đâu.
Vốc một nắm xôi nếp Tú Lệ ăn cùng thịt lợn nướng hoặc măng ngọt xào thì đúng là cực phẩm trong ẩm thực rồi. Sự ngon của món này không chỉ dừng lại ở việc vừa miệng. Xôi Tú Lệ còn quyến rũ du khách bởi hương thơm của nó. Người ta ví von đỉnh điểm mùi hương của nếp Tú Lệ như kiểu hoa ban, hoa sở, hoa trẩu…giữa núi rừng.
Như một dạng chắt lọc được từng giọt hương sắc của núi rừng Tây Bắc trong từng hạt nếp. Xôi Tú Lệ không chỉ như một món ăn cứu đói mà còn là một nét ẩm thực rất riêng của Yên Bái. Tin chắc rằng ai trong chúng ta khi đặt chân đến Yên Bái đều không thể bỏ qua món ăn độc đáo này.
5. Cốm Tan Tú Lệ
Vùng Tú Lệ xưa giờ vốn nổi tiếng với thứ nếp dẻo ngon. Từ nguyên liệu trời ban này cùng đôi bàn tay tinh tế họ đã sáng tạo ra bao món ăn lôi cuốn lòng người. Những ngày vừa ngơi việc đồng người ta rủ rê nhau cùng giã cốm (cốm tan). Từng nhịp chày giòn giã vang trong đêm như xua tan đi mệt nhọc hàng ngày.
Món cốm tan Lệ được đánh giá là ngon ngang ngửa món cốm làng Vòng nức tiếng. Những bông lúa còn xanh trĩu hạt còn ướt đẫm sương được theo tay người gặt về nhà.
Để món cốm còn nguyên hương vị tươi nguyên họ phải rang ngay sau khi tuốt xong. Phải dùng loại chảo gang để nếp nóng đều mà không bị khét. Rồi chờ cho mớ hạt ngọc xanh mát này nguội họ cho từng nắm vào giã. Phải thay phiên nhau giã ròng gần chục cối mới có được một mẻ cốm.
Mệt và nhiêu khê là vậy nhưng cứ nhìn thấy mớ cốm tan xanh ngời ngời trên tay từng nhịp chày cứ thế hối hả giã cho xong mẻ.
Để giữ mùi thơm và độ xanh nguyên thủy của cốm người ta thường gói trong lá dong. Cốm tan Tú Lệ được dùng trong nhiều món khác nhau nhưng vẫn không lần nào không khiến người ta bớt say mê. Thứ hạt ngọc mọc ở vùng đất lưng chừng trời này biết lấy lòng người ta khi khi vừa dẻo ngon lại còn thơm ngào ngạt như vừa ấp trong túi hương ra vậy.
Cứ tháng 8 tháng 9 hàng năm khi những hạt nếp nằm vắt bên dòng Mường Luống trĩu cành là lúc mùa cốm đã về. Từng nhịp chày lại rục rịch lên xuống đều tay cho mẻ cốm thơm lừng. Hạt ngọc trời ban tưởng chừng bình dị nay lại góp thêm một chút tạo ra nét thi vị, quyến rũ cho vùng rẻo cao Tây Bắc này.
6. Bánh Chưng Đen Mường Lò
Bánh chưng là món bánh truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ tết của người Việt. Và ở mỗi vùng miền người ta lại cùng sáng tạo ra nhũng món bánh chưng khác nhau. Người Thái cũng không ngoại lệ, cứ đến những ngày ngọn gió đông chớm thổi họ lại rục rịch gói bánh chưng. Nhưng món bánh của người Thái là thứ bánh chưng màu đen ngon bùi khác lạ hơn cả.
Bánh chưng đen Mường Lò có hình dạng khác với bánh chưng miền xuôi. Các vị bô lão kể lại rằng vì muốn gắn kết hai dân tộc Thái với Khơ- mú nên đã tạo ra loại bánh này. Hai chiếc bánh như đôi bàn tay úp vào nhau tạo thành một chiếc bánh chưng đầy ý nghĩa.
Nếp phải là thứ hạt ngọc quý giá ở Tú Lệ. Lá dong xanh mướt và cắt bỏ gân lá cho dễ gói. Phần nhân thì vẫn bao gồm đậu xanh, thịt ba chỉ nhưng phần nếp được thêm vào mè đen. Đây cũng là nguyên liệu khiến món bánh chưng đen bùi béo khó cưỡng.
Ở khâu nhuộm đen hạt nếp, người ta dùng than cây núc nác. Phải trộn thật đều tay đến khi miết thật mạnh mà hạt nếp không phai màu thì xem như việc tạo màu đã hoàn tất. Rồi cùng nhau ngồi canh suốt đêm bên nồi bánh người ta như quên đi bao mệt nhọc ngày mùa. Từng cặp bánh sau khi vớt ra được treo lên cao cho ráo nước và không bị mốc.
Thưởng thức bánh chưng đen là sự hòa quyện giữa cái dẻo thơm của nếp, cái béo bùi của thịt, đậu xanh và mè đen, cả cái vị mộc mạc của núc nác và lá dong khiến miếng bánh cứ chần chừ nơi đầu lưỡi người ăn.
Bánh chưng đen Mường Lò tồn tại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người Thái không chỉ xem bánh chưng như một món ăn mà còn là thức quà để bày tỏ lòng biết ơn với người đi trước. Mà cũng chẳng phải là quá lời khi nói ngày Tết ăn miếng bánh chưng đen như nuốt cả đất trời Tây Bắc vào lòng.
7. Mật Ong Nhãn Văn Chấn
Cứ vào độ tháng Tư hàng năm, khi những chùm hoa nhãn nở rộ. Cũng là lúc người dân Văn Chấn biết mình sắp được một mùa mật ong ngọt lịm.
Những cánh rừng nhãn bạt ngàn ở Văn Chấn trở thành nguồn dự trữ mật dồi dào cho biết bao đàn ong. Từng tốp ong thợ cần mẫn ngày đêm để mang đến cho đời thứ mật vàng óng ánh từ hoa nhãn đầy dưỡng chất. Những giọt mật trong veo, vàng như hổ phách khiến người ta cứ nôn nao dùng tay quệt ngay vài giọt rồi cho vào miệng. Vị ngọt tan ngay trên vị giác cùng hương thơm dịu dàng của hoa nhãn làm người ta ngất ngây cứ dùng dằng không muốn rời miền núi hấp dẫn này.
Để lấy được mật ong nhãn phải thật khéo léo, nhẹ nhàng. Thì mới có thể tách gọn được giọt mật nguyên chất không pha lẫn tạp chất. Bên cạnh đó mật ong nhãn Văn Chấn còn nổi tiếng với độ tinh khiết.
Với tập tục trồng trọt theo phương pháp tự nhiên nên những cây nhãn từ lúc trồng đến lúc ra hoa luôn đảm bảo được sự sạch nguyên của chúng. Cũng vì thế mà mật ong nhãn trở thành thứ mật ngon hàng bậc nhất vùng Tây Bắc. Tuy nhiên vì có quá nhiều dưỡng chất nên mật ong nhãn vẫn được khuyến cáo tránh dùng trước bữa ăn.
Một lọ mật ong nhãn nho nhỏ trở thành món quà không thể thiếu của những chuyến đi Tây Bắc. Hãy ghi chú lại nếu bạn chuẩn bị đến đây mà chưa biết mua gì cho người thân, bạn bè nhé.
8. Trứng Kiến
Khi cái nắng oi nồng của tháng Ba đến, đàn ông Tây Bắc rủ nhau lên rừng lấy trứng kiến. Từ nguyên liệu này họ cùng nhau tạo ra vô số món ăn hấp dẫn. Món ăn với tên gọi mới đầu tưởng chừng khó nhằn ấy lại phổ biến và trở thành đặc sản của Yên Bái.
Những tổ kiến to như mũ cối được gõ nhẹ xua kiến ra hết rồi tách đôi để lấy trứng. Người ta thường không lấy hết trứng mà chừa lại một ít cho kiến sinh sản. Những cái trứng kiến ú mềm, trắng đục màu sữa chỉ nhìn thôi mà đã nguậy mùi thơm trong cổ họng rồi.
Trứng kiến mang về được chế biến thành rất nhiều món khác nhau.
Tuy nhiên đặc sắc nhất phải kể đến xôi ngũ sắc trứng kiến. Những hạt nếp dẻo ngon được mang đi đồ xôi rồi ướp cùng lá rừng tạo ra những màu sắc thật bắt mắt. Trứng kiến được ướp gia vị gói trong lá dong rối đen nướng. Đơm một đĩa xôi ngũ sắc rắc lên đó mớ trứng kiến thơm phức làm không ai cầm lòng được.
Bốc từng nắm xôi cùng một nhúm trứng kiến vỡ nhẹ trong miệng thật bắt tai. Món này ăn kèm với cá suối sấy và muối ớt trộn chanh thì quả là không hương vị nào sánh bằng.
Bỏ lỡ một bữa tiệc với trứng kiến khiến người ta buồn bã như vừa bỏ lỡ một bữa lộc trời. Bữa chợ tình dường như kém vui, điệu múa xòe hoa bớt rộn ràng và những chiếc váy bớt phần rực rỡ khi người ta ghé thăm Yên Bái mà bỏ sót một món ẩm thực đặc sắc nơi lưng chừng tròi này.
9. Măng Sặt
Măng có mặt ở khắp vùng Yên Bái từ măng nứa, măng mai, măng vầu… Và sau mỗi đợt mưa những mục măng béo ú ở miền núi cao lại mọc lên như nấm.
Nói đến một loại măng ngọt thanh và lành tính nhất thì nhất định phải nhớ đến măng sặt. Người ta kháo nhau rằng măng sặt ngon nhất khi còn là những búp măng vừa mới nhú. Những búp đã trồi lên khỏi mặt đất phải dùng dao bén xắn thật mạnh tay. Những búp còn ẩn mình trong đất thì phải thật khéo léo để không phạm vào thân măng. Và với một vài cái lay nhẹ của người Yên Bái làm cựa mình những búp măng tròn lẳng, trắng ngần.
Mỗi thân măng sặt chỉ to hơn ngón tay cái người lớn, được bao bọc bởi lớp vỏ dày và cứng. Đôi bàn tay người vùng cắt thoăn thoắt gột rửa mang đến những lõi măng tươi non, trắng nõn.
Măng sặt có thể được chế biến ngay thành các món khác nhau. Từ món ninh xương sườn nhiều công đoạn đến những món giữ tươi nguyên hương vị măng như luộc và nướng. Và dù ở bất cứ món nào người ta cũng không thể quên được vị ngọt bùi, hương núi rừng mà măng sặt mang lại.
Măng sặt không chỉ là món ăn giàu dinh dưỡng mà còn là vị thuốc quý trong Đông Y. Bởi mới nói người Yên Bái quý măng sặt như vàng nên nếu được họ chiêu đã “thứ rau rừng” quý giá này bạn đừng vội từ chối nhé.
10. Bánh Chuối Lục Yên
Từ ngàn xưa, hình ảnh cây chuối luôn gắn liền với người dân đất Việt. Và cũng hiếm có loài cây nào hữu dụng đến mức dùng được tát cả các bộ phận như chuối. Với tình yêu thiên nhiên dân tộc Tày đã nâng niu nguyên liệu từ chuối để tạo thành món bánh chuối Lục Yên ngon đặc trưng.
Bóc nhẹ từng lớp lá chuối một màu vàng óng như mật ong dần dần hiện ra. Phần bột bên ngoài là sự pha trộn giữa bột chuối và bột gạo tạo nên sự kết dính độc đáo. Bột chuối này thường là chuối chín được sấy khô. Khi cần gói bánh người Tày mang đi ngâm nước rồi đem xay tạo ra thứ bột độc quyền này.
Phần nhân bánh là sự hòa quyện giữa đậu, đường, đậu phộng. Thứ bánh được tạo thành từ những nguyên liệu đơn giản vậy mà sao ngon đến lạ thường. Cái thi vị của bánh chuối Lục Yên không chỉ nằm ở hương vị. Mà đó còn là sự mộc mạc, đằm thắm khi tất cả nguyên liệu đều đến từ những thứ không hề đắt đỏ là chuối. Từ chiếc lá gói hay dây buộc cũng được gói gọn từ cây chuối mà ra.
Món bánh chuối như thứ quà tinh thần không thể thiếu của người dân Yên Bái mỗi khi có dịp lễ lộc. Biết bao mâm cao cỗ đầy nhưng họ vẫn phải chêm cho bằng được một phần bánh chuối vào. Như một sự biết ơn khi cố gắng phát huy nếp nhà tốt đẹp từ bao đời và lưu giữ hương vị núi rừng thuần khiết nhất.
11. Chè Shan Tuyết Suối Giàng
Truyền thuyết của người H’Mong kể lại rằng thuở đất trời còn chưa phân định. Một sáng nọ nàng tiên xinh đẹp hạ giới gieo xuống vùng đất này thứ hạt mầm kỳ lạ. Càng lớn cây càng tươi tốt với tán xòe rộng, lá to gần nửa bàn tay còn búp thì ngậm đầy sương trắng muốt như tuyết. Ngày nọ một tốp người di cư đến lại gặp đợt dịch bệnh. May nhờ thứ nước thần thánh từ lá cây này với nước suối mà khỏi bệnh. Họ đặt tên cho nơi kỳ lạ này là suối trời tức Suối Giàng. Từ đó người ta vẫn truyền miệng nhau về thứ chè Shan Tuyết kỳ diệu này.
Ngày nay chè Shan Tuyết có mặt ở khắp nơi nhưng chỉ có ở Suối Giàng mới là nơi có nhiều cây với tuổi đời hàng trăm năm. Những cây chè cổ thụ tuổi từ 100 -300 năm là nét ấn tượng thu hút du khách mỗi khi ghé thăm Suối Giàng. Từng cành cây to lớn vươn mình ra đón nắng gió giữa trời. Những búp xanh e ấp phủ đầy sương đang e ấp chờ tay người hái.
Hình ảnh những chiếc váy hoa thoắt ẩn thoắt hiện trên những cành to, uốn lượn như một bức tranh tuyệt làm du khách chùng mãi đôi chân không muốn bước đi.
Chè Shan Tuyết càng già càng phủ trắng thì càng quý. Cũng bởi thứ đặc sản quý giá này mà khâu chế biến cũng phải thật cẩn trọng. Khi sao trà phải thuần thục đôi tay để không rớt mất tuyết trắng. Đến khi săn lại bằng hạt đậu xanh áp bên ngoài lớp áo trắng tinh thì công đoạn xem như hoàn tất.
Ấm chè Shan Tuyết nghi ngút khói với thứ nước vàng óng ánh cũng là một khâu chọn lọc pha trà thật kỹ càng. Phải là loại ấm đất nung già, nước lấy từ trên núi sôi đúng độ mới mong mang lại một tách chè Shan Tuyết đúng vị. Chao nhẹ làn khói mỏng rồi nhấp môi ngụm chè mới thấy được vị thanh tao, vị ngọt thơm dừng lại cả hàng giờ mà không hề vơi đi.
Chẳng biết thứ lá này có diệu kỳ như truyền thuyết không nhưng với những ai đã một lần ghé thăm, thưởng trà và ngắm những tán trà cổ thụ ngoài xa thì đã là một niềm mãn nguyện lắm rồi.
12. Dế Mèn Chiên
“Bao giờ cho đến ngày xưa
Để nghe tiếng võng đong đưa của bà
Để dầm nắng dưới đầm hoa
Rình con dế cụ thò ra thụt vào…”
Câu hát réo rắt của người Mường Lò chợt gợi cho người ta sống lại ngày trẻ thơ nô đùa cùng nhau bắt dế. Mà lạ thay dế mèn ở Yên Bái không chỉ là thứ trò chơi dân gian mà còn là một món ăn vô cùng hấp dẫn. Bỏ qua những ái ngại về tên gọi hay nguyên liệu món ăn từ dế mèn dần phổ biến đến mức trở thành đặc sản của cả vùng Tây Bắc.
Dế mèn có thể chế biến thành nhiều món khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là dế mèn chiên giòn. Phải chọn những con dế còn sống và đầy đủ chân và càng mới mong có được món ăn ngon. Ngâm dế qua nước muối loãng để làm dế chết và khử sạch bùn đất.
Công đoạn chế biến cũng phải thật khéo léo để không làm nát dế. Sau đó khử sạch mùi bằng nước sôi hoặc nước măng chua rồi chế biến.
Những con dế vàng ươm trong chảo dầu nóng già phải được đảo thật khéo léo tránh sứt mẻ. Một đĩa dế mèn chiên sẽ mất ngon nếu thiếu bát nước chấm. Vị chua của chanh, cay nồng của ớt, thơm thảo của sả hay vị the thé của lá chanh cùng con dế béo nguậy giòn tan làm người ta không muốn dừng đũa.
Dến mèn chiên giòn có thể được phủ thêm lớp tương ớt hay nước măng chua để thêm phần đậm đà. Ăn kèm với món này là vài thứ rau rừng hoặc các loại quả chua thì thật là thức ngon khó cưỡng.
13. Thịt Dê
Với điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho việc chăn thả gia súc. Những vùng đồi núi rộng lớn là bữa ăn ngon lành cho nhiều loại vật nuôi. Việc chăn thả cũng là yếu tố khiến gia súc ở Yên Bái có chất lượng thịt ngon đặc biệt trong đó không thể bỏ sót thịt dê Yên Bái.
Thịt dê núi được nuôi thả thường được yêu thích hơn vì độ săn chắc, ít mỡ. Những con dê tới tuổi giết thịt được chọn đuổi và đánh cho đến khi hết mùi hôi. Phần thịt dê được ướp với lá quế hoặc cúc tần rồi chế biến thành các món ăn hấp dẫn.
Ví như món dê nướng người ta chọn phần thịt bắp đỏ mềm đặc trưng ướp với các gia vị núi rừng. Nướng phần thịt dê trên than hồng tránh lúc lửa to để không ám khói. Trong lúc nướng phải phết đều tay dầu điều lên bề mặt để thịt không bị khô và giữ đẹp màu. Đặc biệt phải nướng từ phần da, khi da chín cũng là lúc phần thịt vừa đủ ngấm gia vị và chín tới. Món thịt dê nướng càng ngon hơn khi ăn kèm rau rừng và nước chấm do chính tay người vùng cao pha chế.
Ngoài ra, thịt dê Yên Bái còn có thể chế biến được rất nhiều món ăn hấp dẫn đang chờ bạn khám phá. Thịt dê không chỉ là một ăn no bụng mà còn dồi dào chất dinh dưỡng vì thế luôn thu hút người ta khi vừa thoáng nghe tên gọi.
14. Mắc Khén
Nhắc về các món ăn Yên Bái hẳn đã có lần bạn nghe đến tên mắc khén. Thứ hạt rừng bé tí ti này được xem như một trong những bí quyết tạo ra các món đặc sản ở vùng cao. Về tên gọi có nơi gọi là mắc khén, ma khén hay mắc kha tùy vùng miền.
Mắc khén ra hoa kết quả vào tháng 11 hằng năm. Những quả mắc khén xanh sử dụng làm gia vị là ngon nhất. Nhưng ở giai đoạn này bảo quản không được lâu nên khi thu hoạch xong người ta thường làm khô. Quả mắc khén sau khi phơi lộ ra phần hạt màu đen ánh đó chính là thứ mà những người yêu ẩm thực vùng cao rất cần.
Khi cần dùng người ta rang một ít dùng dần để không làm ảnh hưởng đến mùi hương của mắc khén.
Hạt mắc khén xuất hiện trong hầu hết mâm cơm của người Tây Bắc. Mắc khén giã ra đem tẩm ướp các món rán, nướng, luộc, chiên, xào, kho… đến các món nước chấm nổi tiếng như “chẩm chéo” cũng không thể quên gia vị nay. Họ quen mùi vị cay thơm nồng của mắc khén đến độ không có thì cơm đã mất ngon vài phần.
Mắc khén được xem như thứ quà độc nhất vô nhị mà thiên nhiên ban tặng cho Tây Bắc. Một nhúm hạt mắc khén vừa rang hay một nhánh mắc khén tươi treo gác bếp cũng đủ thơm say chết lòng người ta rồi.
15. Cá Sỉnh Nậm Thia
Dòng Nậm mát lành, hiền hòa ở Mường Lò là nơi sinh sống của loài cá sỉnh. Với tập tính ngược dòng nên vào sinh sản cá sỉnh thường bơi lên thượng nguồn đẻ trứng. Rồi những đàn cá con cứ xuôi dòng lừng lững về hạ nguồn là dòng Nậm Thia. Có lẽ nhờ vậy mà ở Nậm Thia cá sỉnh nhiều không kể xiết.
Cá sỉnh ăn rêu đá để sống. Những con cá thon dài, thân mảnh con nào to lắm cũng cỡ bốn ngón tay. Đặc biệt rất ít xương, chắc thịt, ngọt đậm lại không tanh nên người ta tha hồ chế biến nên các món ăn từ cá. Từ “pa kính pỉnh” – cá được kẹp tre rồi nướng trên than hồng. Đến “pa mốc” – cá bọc lá chuối rồi mang vùi trong tro nóng. Hay các món tốn nhiều thời gian: “pa mắm” – làm mắm từ cá, “pa khính xổm” – cá muối chua, “pa khính giảng” – cá gác bếp…
Dù ở món nào cũng không thể thiếu bát nước chấm “nậm pịa” thứ hỗn hợp pha trộn từ ruột cá sỉnh, hạt sẻn, hành, gừng rồi đem chưng.
Những con cá chuyên ngược dòng nên vô cùng nhanh nhảu. Vì thế người ta luôn đưa ra nhiều cách để dụ khi cho bằng được loài cá quý này. Người thì giăng chiếc cần câu với mồi là giun đất đang ngoe nguẩy. Ai khéo tay thì quăng chài, khéo léo quan sát dòng chảy thì cũng được bữa mẻ lưới nặng tay. Mà độc đáo nhất phải nhắc đến “chuôm đá”. Người Thái tạo thành các hang hốc, “chuôm” nhỏ bằng đá dưới nước. Nhử cá vào bằng xương trâu, bò, khi cá vào kín họ dùng lưới vây bắt lại. Một chuôm có khi được 4-5kg cá sỉnh.
Cá sỉnh của dòng Thia không những được xem là thức ăn mà còn xuất hiện trang trọng trong lễ vật hỏi cưới của người Thái. Thế mới biết con người Yên Bái quý loài cá này nhiều biết dường nào. Một dịp bất chợt nhớ Nậm Thia thì đừng quên cá sỉnh thơm lành, dòng nước hiền hòa, buổi “chôm đá” náo nhiệt, cả bát rượu và điệu xòe Thái bạn nhé.
16. Nhãn Văn Chấn
Vốn được thiên nhiên ưu đãi về vị trí địa lý lẫn điều kiện tự nhiên, Yên Bái thuận lợi phát triển các loiaj cây ăn quả. Một trong những đặc sản trái ngọt phải nhắc đến là nhãn Văn Chấn.
Những cánh rừng bạt ngàn cây nhãn được trồng thuần tự nhiên không theo bất cứ phương pháp hóa học nào nên rất được du khách ưa chuộng. Kỳ lạ thay thứ nhãn này lại sai quả và môi năm đều cho quả trĩu cành. Thứ nhãn vùng cao ngọt lịm, thơm ngây ngất lòng người. Mà đâu chỉ có mỗi người, mùi hương này còn thu hút những con ong thợ chuyên hút mật. Mật ong từ nhãn Văn Chấn sậm màu như hổ phách và thơm mùi nhãn đặc trưng.
Để có được thứ mật từ nhãn nức danh này không thể không kể đến sự công phu của người lấy mật. Và phải là một người thật khéo tay mới có thể quay thật nhẹ nhưng đều và nhanh để mật ong được lấy sạch mà không lẫn sáp ong.
Rồi năm nào cũng vậy khi ngày mùa tháng 4 oi ả về người ta lại nôn nao mơ những cành hoa nhãn chi chít trắng xóa. Đó như báo hiệu cho một vụ nhãn bội thu và những túi mật ong đầy ắp cũng sắp về.
17. Khoai Tím Lục Yên
“Lên rừng nhớ vợ, nhớ con
Về nhà nhớ củ khoai mon trên rừng”
Câu hát mà người Lục Yên cứ hay ví vón cho nhau nghe như vậy. Mà thật thứ khoai mon Lục Yên với hình dáng thật bình dị nhưng trót nếm một lần thì lại làm lòng người ta say khi nào chẳng biết.
Khoai tím hay khoai mon còn được gọi là khoai Dao, khoai Xá vì nó chỉ xuất hiện ở nương rẫy của họ. Ngẫm mà thấy người tấm tắc khen về độ gon của khoai cũng không ngoa. Vì hầu như tất cả tinh túy của cả dây khoai chỉ dồn vào đúng một củ. Mà trồng loại khoai này như kiểu dấm dúi vứt đi. Mùa xuân người ta đen vùi vào hố đất. Khi những cơn gió hanh hao của mùa đông đến người ta lại đi dỡ khoai. Những củ khoai tím lịm như đôi tay úp vào nhau nếu dỡ đúng kỳ có khi nặng hơn 1kg.
Người ta trao đổi khoai ở các phiên chợ vùng cao. Nhũng củ khoai quý béo, bùi, dẻo thơm trao từ tay này sang tay khác như trao đi cái tình cái nghĩa cho nhau. Rồi ăn một miếng khoai tím Lục Yên sao nghe lòng văng vẳng câu ca lòng lữ khách lại muốn có chuyến đi vùng cao một lần nữa.
18. Mận Tam Hoa Mù Cang Chải
Đến vùng đất Mù Cang Chải vào tháng 5 du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang nổi tiếng, những bản làng thơ mộng nằm e ấp bên vách đá; hay những cô gái Mông duyên dáng thật thà mà còn mát lòng mát dạ khi được thưởng mình trong mùa mận Tam Hoa.
Mận Tam Hoa chưa phải là thứ mận ngon nhất cả nước. Nhưng đến Mù Cang Chải mà không ăn bằng được quả mận này thì hơi phí. Mận Tam Hoa có quả to, thịt đỏ hồng bắt mắt vô cùng. Và làm người ta nhớ mãi bởi cái vị chua đậm, giòn nhưng không gắt.
Khi bản làng người Mông mờ ảo trong dải sương đang vắt vẻo trên những nhành cây. Thì thấp thoáng là những cô thiếu nữ Mông tay nhanh nhảu hái đầy một gùi mận tím. Đôi tay “múa” đến đâu những tia nắng ửng nhẹ nhảy nhót theo đến đó. Cảnh tượng như người ta như lạc vào chốn tiên bồng.
Tùy vào mục đích mà mận Tam Hoa Mù Cang Chải có thể được chế biến thành nhiều món khác nhau. Tuy nhiên nếu không cầm lòng được bạn có thể thưởng thức ngay tại vườn với mức giá rất rẻ. Chuyến đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Mù Cang Chải nhờ thế mà hấp dẫn hơn phải không nào?
19. Rau Dớn
Rau dớn hay còn gọi là dớn rừng, thái quyết là một loài thuộc họ dương xỉ. Thoạt nhìn thì cũng không khác rau (đọt) choại ở miền xuôi là bao.
Rau dớn thường mọc ở ngách đá, khe núi và có mặt quanh năm ở Yên Bái. Tuy nhiên thứ này vẫn được cho là tươi ngon nhất là vào mùa mưa. Rau dớn dồi dài chất dinh dưỡng nên thường được chế biến thành rất nhiều món ăn khác nhau. Từ xào, luộc, nấu canh đến cầu kỳ như gỏi rau dớn tôm thịt, rau dớn xào rắc mắc khén, rau dớn dòn cá niên hoăc có thể ăn kèm các món nước. Tuy nhiên món rau dớn luộc vẫn được ưa chuộng hơn cả vì độ giữ nguyên vị của rau.
Người ta thường sử dụng những ngọn xanh non cuộn tròn lại như vòi voi xanh mướt mát. Đặc trưng của rau dớn là có vị hơi nhớt nên khi chế biến người ta thường phải chần sơ qua nước sôi. Bữa cơm thêm đẹp mắt vì có sự xuất hiện của đĩa rau dớn và đưa cơm đến nỗi người khách ăn hoài cũng chẳng biết no.
Trong Đông y, rau dớn được cho vào hàng thảo dược quý với nhiều công dụng. Người miền núi quý rau dớn như một loại thực phẩm quý. Ví như người Cơ tu vào mùa xuân họ xem rau dơn như loại thức ăn chính. Còn đối với một số dân tộc khách họ xem dớn mà vua của các loại rau. Vì thế không khó để tìm thấy rau dớn trong các dịp lễ hội hay các dịp lễ lộc quan trọng của họ.
20. Bánh Chim Gâu
Yên Bái là một tỉnh vùng cao có sự sinh sống của nhiều dân tộc ít người. Sư đa dạng về dân tộc đã góp phần tạo nên một nền văn hóa đa sắc màu cho nơi đây. Lại nói về sự đa dạng thì ẩm thực là một trong những “bữa tiệc” nhiều màu sắc nhất. Đơn cử có thể nhắc đến món bánh chim gâu (chim cu gáy) của người Dao.
Món bánh có tên rất lạ này xuất phát từ một tích chứa chan tình mẫu tử. Người ta kể với nhau những bà mẹ người Dao lên nương rẫy nhưng trái tim vẫn đau đáu hướng về đứa con bé bỏng ở nhà. Rồi những trưa rảnh tay ho xếp lá dứa rừng thành chiếc ỏ bánh chim gâu. Về nhà họ lại thêm bột vào làm thành những chiếc bánh đẹp mắt.
Ngày nay bánh chim vẫn được gói bằng lá dứa rừng nhưng phần bánh được pha chế cầu kỳ hơn.
Người ta pha trộn thêm đỗ xanh hoặc nhuộm màu gạo bằng các loại lá cây khác nhau để mỗi chiếc bánh là một sự bắt mắt khác nhau. Thật ra, ngoài tạo hình chim gâu người ta có thể đan thành hình những thứ khác tùy ý nhưng có lẽ vì ý nghĩa từ xưa nên hinh tượng chim gâu vẫn được ưa thích hơn cả.
Những buổi gói bánh, người phụ nữ Dao lại rủ nhau tụm lại một góc nhà rồi khéo léo uốn lượn sao cho giống chim gâu nhất. Mà còn phải đảm bảo chiếc bánh nhỏ xinh vừa phải không quá to cũng không quá dài. Chiếc bánh nhỏ nhắn được xếp gọn và nấu chín trong nồi đầy ắp nước khoảng 1 giờ đồng hồ là đã cơ thể thưởng thức.
Tặng nhau chiếc bánh chim gâu như tặng nhau món ngon khi đói lòng. Và với các em bé nhỏ đó còn là cả sự yêu thương của mẹ dành cho mình. Món ăn dân dã này là thứ không thể thiếu trong các dịp lễ tết. Vắng đi chiếc bánh chim gâu như khiến cho hương vị núi rừng mất đi mấy phần rồi.
21. Bưởi Đại Minh
Đại Minh được biết đến như thủ phủ của giống bưởi tiến vua Khả Lĩnh. Bưởi Đại Minh được xếp ngang với bưởi Năm Roi, bưởi Đoan Hùng, bưởi Phúc Trạch…
Tên gọi Khả Lĩnh có lẽ bắt nguồn từ rất lâu. Khi mà người ta kể lại về người tên Ngô Vi Lã đến đây khai khẩn rồi lập nên Khả Lĩnh Trang. Rồi cây trái trong vườn sai quả ông thả những quả bưởi to theo dòng về nguồn. Người ta nhặt được và bưởi Khả Lĩnh được tiến vua từ dạo đó.
Những cây bưởi Khả Lĩnh gốc to như cây cổ thụ, cây bưởi cổ có tuổi đời hơn 60 năm. Bưởi ở đây trĩu cành, quả căng mịn, tép mọng nước không đắng. Đến cả những quả chua cũng không chua gắt khó chiều lòng người.
Bưởi Đại Minh là giống bưởi quý đem lại giá trị cao về kinh tế lẫn văn hóa. Lễ hội bưởi Đại Minh hàng năm như một lời cảm ơn người đi trước cùng lời hứa giữ gìn giống cây quý cho thế hệ sau.
22. Cam Văn Chấn
Khi cơn gió chớm đông se se lạnh thổi về những người con Văn Chấn lại thấy ấm lòng vì những vườn cam vàng rực.
Nông trường Trần Phú ở Văn Chấn là nơi chuyên canh tác cam. Nơi đây còn là nơi khai sinh ra những “triệu phú cam”. Cam ở Văn Chấn được trồng theo hình thức phân tầng từ cao đến thấp từ cam chanh – cam sành – cam sen hoặc quýt.
Cam Văn Chấn có hình dáng đẹp, quả đều tay, mọng nước, ít sơ nên rất được ưa chuộng. Một ngụm cam như thế này trong ngày oi ả thì làm mát lòng biết bao người rồi.
Còn gì thú vị hơn khi đi dọc những ngọn đồi bạt ngàn cam. Từng tầng cây cam đều như xếp khiến người ta ngẩn ngơ quên lối đi về. Rồi ghé Yên Bái vào mùa cam chín, người ta lại nao lòng khi thấy nhấp nhoáng trong lá xanh những quả cam chờ tay người hái về. Một màu cam rực như mời gọi du khách và đánh thức ngày mùa thu hoạch cam đã đến nơi rồi.
23. Táo Mèo
Táo mèo là thứ quả rất nổi tiếng của vùng Tây Bắc. Nhưng nổi tiếng và được nhiều người biết đến thì phải nói đến táo mèo Yên Bái.
Ở nhiều nơi người ta còn gọi táo mèo là sơn tra. Táo mèo mọc dại ở rừng và cho quả vào tháng 9, tháng 10 hàng năm. Những người hái táo giỏi mách rằng táo mèo ngon nhất là những quả nhỏ có sâu.
Loại quả tuy bé nhỏ này nhưng lại có thể chế biến thành rất nhiều thứ khác nhau. Nếu không kìm lòng được trước mùi thơm của táo bạn có thể thưởng thức ngay lập tức. Hoặc có nhiều thời gian thiw món rượu táo mèo, ô mai táo mèo hay muối xổi là một trong những lựa chọn hấp dẫn dành cho bạn. Mà kỳ lạ thay dù chế biến thành món nào thì táo mèo vẫn giữ nguyên được hương vị và cũng làm say lòng người ta thế thôi.
Táo mèo cũng không quá khó mua nên cứ vào mùa lại thấy người ta bày bán ở khắp nơi. Những quả bé con ửng hồng như một lời rủ rê du khách ghé thăm Yên Bái một lần cho ngắm tận mặt táo mèo đích thực vùng cao.
24. Rượu Thóc La Pán Tẩn
Đồng bào người Mông ở La Pán Tẩn có thứ rượu say đắm đuối lòng người mà không phải ai cũng có cơ hội thưởng thức. Thứ rượu nấu bằng thóc ngon, men lá, nước từ khe đá và bí quyết gia truyền đã được xếp vào hàng đặc sản Yên Bái.
Hầu hết rượu ở La Pán Tẩn được nấu theo phương pháp thủ công nên rất kỳ công và tốn nhiều thời gian. Ấy vậy mà nhà người Mông nào cũng có rượu thóc. Khách nào quý lắm mới được mời hai bát rượu “chào cỗ” rồi say ngã nghiêng cùng chủ nhà.
Rượu thóc La Pán Tẩn êm, ngọt thơm rất dễ uống. Và nếu như hôm trước có say chuếnh choáng với rượu thì tỉnh dậy cũng không sợ bị đau đầu. Đặc biệt rượu ủ càng lâu thì hương vị càng thơm ngon gấp bội.
Ngày nay, ghé bản làng người Mông bạn có thể mua được rượu với giá rất rẻ. Tuy nhiên nếu có cơ hội đừng ngại từ chối cái tình cái nghĩa mời rượu thóc khi bạn đến nhà người Mông nhé.
25. Măng Vầu Cuốn Thịt
Măng vầu xuất hiện vào tháng mười hai hằng năm. Khi cơn mưa xuân khe khẽ chạm đất cũng là lúc những ngọn măng rục rịch trồi lên khỏi mặt đất. Măng vầu có thể được chế biến thành nhiều món khác nhau như mang xào tỏi hoặc xào rau răm. Thế nhưng trong bữa cơm có măng vầu mà không mang cuốn thịt thì quả là thiếu sót lớn.
Nguyên liệu làm món này cũng thật đơn giản và dễ tìm. Những ngọn măng được mang đem luộc cho dễ gọt. Bóc tách hết lớp vỏ già là từng lớp lá non mơn mởn xếp đan xen nhau. Đây là lúc đòi hỏi sự khéo léo của người chế biến cao nhất. Họ phải thật nhẹ tay để có những lá măng non đều nhau không bị rách. Phần nhân cuốn là sự hòa quyện giữa thịt ba chỉ, rau răm, trứng và gia vị.
Đặt một cuốn măng vào miệng thấy được vị ngọt lịm của măng rừng, vị đắng nhẹ đặc trưng, thơm của rau răm và béo của thịt. Nước chấm ăn kèm món này thường có hai loại: nước chấm mẻ và nước chấm tỏi ớt. Tùy ý thích mà người sẽ chọn cho mình một loại nước chấm phù hợp nhất.
Măng vầu cuốn thịt có mặt ở hầu hết các tỉnh miền Bắc. Những ngày lất phất mưa xuân còn gì thú hơn khi nhâm nhi một cuốn măng này nhỉ. Mà thức ẩm thực vùng Tây Bắc sao nhìn đơn giản nhưng cuốn người ta mê theo lúc nào cũng chẳng biết.
26. Rêu Suối Mường Lò
Những dòng suối róc rách quen thuộc ở Mường Lò không chỉ tắm mát mà còn mang lại nguồn thức ăn hấp dẫn. Ấy vậy mà ít ai ngờ những mảng rêu xanh mát ở suối cũng có thể làm món ăn. Đặc biệt hơn, người Thái chỉ dành tặng món ăn này cho những người khách mà họ thực sự quý mến.
Rêu ở Mường Lò dài miên man, mềm mịn, dập dờn lượn mình trong làn suối trong. Những ngày Hội hái rêu người ta vốc những vốc tay đầy rêu, vắt lại thành nắm rồi cuộn tròn lại như một loại bột màu xanh vừa được nhào nặn xong. Cảm giác mơn man mát lạnh của những cành rêu như trêu người người hái khiến ai cũng muốn được lội xuống con suối mà hái rêu một lần.
Rêu nướng đươc cho là ngon nhất rong các món ăn từ rêu ngon nhất. Rêu được sơ chế sạch rồi trộn với các gia vị của rừng: mắc khén, hạt dổi, hạt sẻn…rồi trộn đều gia vị và thị mỡ. Tất cả được gói ghém trong lá dong, buộc nẹp tre rồi vùi vào trong ấm. Khi lá dong tí tách, người ta lại mang hơ trên than hoa. Đến khi những giọt nước xanh thơm mát của rêu chảy ra thì biết ngay món ăn đã thưởng thức được.
Ở miền quê sơn cước này, rêu suối nhiều vô số kể nhưng rêu ngon không phải ở đâu cũng có. Người Thái quý rêu như một sản vật quý và chỉ bày biện ra thưởng thức khi gia đình tụ hội đông đủ.
27. Măng Chua Héo
Măng chua héo hay còn được gọi là “nó xổm héo” là một đặc sản nổi tiếng của đồng bào ở Yên Bái. Măng chua héo mang hương vị thuần chất, mộc mạc như cái tình của người miền núi.
Những gùi măng non theo chân người về nhà trải qua nhiều công đoạn để trở thành món măng chua héo độc đáo. Những búp măng trắng ngần, to ụ được bóc hết vỏ già cứng rửa sạch rồi thái mỏng. Sau đó đem ngâm trong nước lã 20-25 ngày là thành măng chua. Măng thành phẩm được vắt ráo rồi đem phơi trước nắng cho vừa se mặt, phơi sương độ 2 3 ngày là được.
Măng chua héo cơ thể nấu với các món thịt tạo thành món ăn đậm chất núi rừng. Từng lát măng chua như gói trọn vẹn hương vị Tây Bắc trong đó. Măng chua héo của người Thái như một món ngon độc quyền mà mẹ thiên nhiên đã hào sản ban tặng.
28. Pà Mẳm
Mẳm là tên gọi món mắm cá của người Thái. Dựa vào phân loại kích cỡ cá làm mắm mà người ta chia làm hai loại: mẳm đí